Tâm Tình và chia sẻ với Hội
Bảo Trợ Ơn Thiên Triệu Giáo Phận Đà Nẵng,
tại Hoa Kỳ
Kính
Gởi :
- Đức Cha Đa Minh Mai Thanh Lương
- Quý Cha Linh Hướng, Quý Cha gốc Giáo phận Đà
Nẵng
- Ông Hội Trưởng, Ban Chấp Hành,
Quý Hội viên và Ông Bà Anh Chị hảo tâm thiện chí
Con
là : Toma Trương Văn Ân.; Sinh : 03.3.1968
; email : annhuongnghia@yahoo.com
Hiện
đang là : Ủy viên Ban Truyền thông và Ban Thánh nhạc Giáo phận Đà Nẵng ; Ca
Trưởng , Phó Chủ Tịch Hội Đồng Mục vụ -
đặc trách đối ngoại của Giáo xứ Nhượng Nghĩa – Gp Đà Nẵng;
Thưa
Quý vị,
Trong
nhiều năm qua, con vẫn thường xuyên nhận được thông tin hoạt động của Hội BTOTT
GPĐN , thông qua anh chị Phê-rô Võ Anh Quy và
các bản tin của anh cựu TTK Antôn Hoàng Đình Thượng, gần đây là ngày Đại
Hội Lần Thứ XVI (17.5.2015).
Con
xin được nói lên tâm tình hạnh phúc, cảm mến , cảm phục đến tất cả quý Hội viên:
Quý Cha và quý vị phải chu toàn trách vụ nặng nề với gia đình, với
cộng đoàn Giáo Hội đia phương và xã hội nơi đang sống…. Nhưng thật cao cả là
Quý vị đã dành trọn cả tấm lòng cho Giáo phận Đà Nẵng tại quê nhà qua lời cầu
nguyện, nhiều việc làm cụ thể , mà đỉnh cao là bảo trợ Ơn Thiên Triệu tại Gp Đà
Nẵng.
Giáo
phận Đà Nẵng có địa giới hành chính gồm thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam,
hiện nay có 54 Giáo xứ và Giáo họ biệt lập, số giáo dân
68,371 người, trên số dân
2,348,070 người , chiếm tỉ lệ gần 3% ; có 105 Linh Mục ( 81 Lm Triều
và 24 Lm Dòng) ; có 4 Tu sĩ nam( Bậc
Thầy, không làm Lm) và 235 Tu sĩ nữ. Với con số thống kê như vậy, con và quý vị
thấy cánh đồng cần truyền Giáo thật bao la , mà Thợ gặt quá nhỏ bé.
Thưa
Quý vị , con được biết : tại Giáo phận Đà Nẵng, không có một tổ chức hay cá
nhân nào tại Hoa kỳ giúp lâu dài và thường xuyên cho quỹ bảo trợ Ơn Thiên Triệu.
Hội
BTOTT GPĐN tại Hoa Kỳ được thành lập đầu
năm 2000 đến nay đã giúp rất nhiều cho Giáo phận Đà Nẵng trong những việc cụ
thể, nuôi dưỡng và phát triển Ơn gọi cho cánh đồng truyền Giáo .
Qua
thơ mời gọi nhập Hội, anh Võ Anh Quy cho con biết : có nhiều người đầy hảo tâm
thiện chí, sẵn sàng bảo trợ cho việc làm thật cao cả này, có những Ông Bà Anh
Chị vì nhiều lý do khác nhau , không có thể làm Hội viên hoạt đông , nhưng sẵn
sàng làm Hội viên danh dự . Chúng con,
những người Giáo dân, cố gắng thi hành mệnh lệnh truyền Giáo bằng chính đời
sống chứng nhân Tin Mừng giữa nơi mình đang sống và làm việc giữa đời . Nhưng
chúng con vẫn rất cần sự hướng dẫn học
hỏi Lời Chúa, đi trong Chính Đạo và nhận
lãnh Ân sủng của Thiên Chúa qua tay của các Mục tử (ĐGM và các LM). Việc bảo
trợ (BTOTT GPĐN) của quý ông bà , là quý
ông bà đang truyền Giáo và nâng đỡ đời sống Đức Tin của chúng con , con cháu
chúng con, và đem Chúa đến cho anh chị
em chưa nhận biết Chúa.
Thưa
quý vị, hiện nay tại Tiểu Chủng Viện Gioan ( Trung Tâm Mục Vụ Giáo phận Đà Nẵng) có 72 Chú Tiểu Chủng viện,
chương trình đào tạo 5 năm ; có 31 Thầy Đại Chủng sinh đang học tại Đại Chủng
viện Xuân Bích–Huế , chương trình đào tạo 7 năm; 10 Thầy đang giúp xứ ; 3 Phó
tế, nhiều Tập sinh của 18 Dòng đang cộng tác Mục vụ tại Giáo phận … sự quan tâm
cầu nguyện và giúp đỡ tài- vật- lực của Hội là rất cần thiết cho công việc đào
tạo nuôi dưỡng Ơn gọi cao cả nhưng đầy
khó khăn thử thách này.
Con
được biết: Hội chọn Đức Mẹ Trà Kiệu làm Thánh hiệu Bổn mạng và tri ân tưởng nhớ Đức Giám mục
tiên khởi Gp Đà Nẵng, xin Quý Cha và quý Ông Bà Anh Chị cho con được tổng hợp
và tóm lược những nét chính về Trà Kiệu , biến cố Đức mẹ hiện ra phù hộ các
Giáo hữu Trà kiệu và Đức Cha PM Phạm
Ngọc Chi :
Trước
năm 1009 , địa giới của Giáo Xứ Trà Kiệu ngày nay là Kinh Ðô của Vương Quốc
Chămpa tức là Chiêm Thành, và được
gọi là Sư Tử Thành (Simhapura). Sau năm 1009 thì Kinh Ðô Chiêm Chúa được dời
vào Ðồ Bàn (Bình Ðịnh). Cuộc tiến quân bình Chiêm của vua Lê Thánh Tông, năm
1470 , đưa quan binh và gia đình của họ
từ Nghệ An , Thanh Hóa…. Vào , trở thành
những vị Tiền Hiền tại Trà Kiệu .
Giáo xứ Trà
Kiệu cách Thành phố Ðà Nẵng chừng 40km về phía tây nam. Trên con đường xuyên
Việt Bắc-Nam (quốc lộ số 1), khi đến trạm Nam Phước (tức Thị trấn Nam Phước,
huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam), rẽ về hướng Tây theo tỉnh lộ 610 (đường đi
khu di tích Mỹ Sơn) chừng 7km, khách hành hương sẽ đến Giáo xứ Trà Kiệu hay còn
gọi là Trung tâm Thánh Mẫu Trà Kiệu
Giáo xứ Trà Kiệu có thể được hình thành vào khoảng
năm 1630.
Năm 1885 - năm Ất Dậu, sau khi hộ giá vua Hàm Nghi
ra Quảng Trị, Tôn Thất Thuyết ra hịch Cần Vương (Cần Vương là hết sức hết lòng
phò vua). Hưởng ứng hịch Cần Vương, phong trào Văn Thân nổi lên khắp nơi với
khẩu hiệu là "Bình Tây Sát Tả" tức là đánh đuổi quân Pháp và
giết sạch Kitô giáo (lúc đó họ qui Ki-tô giáo là Tả đạo). Suốt trong hai thế kỷ
trước đó, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam
cũng đã trải qua nhiều thời kỳ cấm cách bắt đạo rất khốc liệt, nhưng không có
năm nào mà "máu con nhà có đạo"chảy ra nhiều như năm 1885 này. Riêng
tại khu vực miền Trung số giáo dân bị sát hại bằng nhiều cách lên đến năm sáu
chục ngàn người. Trong Giáo phận Quy Nhơn (kể cả giáo phận Ðà Nẵng ngày nay) có
200 Họ Đạo hoàn toàn bị tiêu diệt, chỉ có giáo xứ Phú Thượng và Giáo xứ Trà
Kiệu là thoát khỏi sự hủy diệt. Sau 8
ngày bao vây và tấn công mà không tiêu diệt được Giáo xứ Trà Kiệu theo như họ
dự định, nên vào ngày 9 tháng 9 năm 1885, quân Văn thân mới quyết định đưa súng
thần công về tăng cường, vì trước đó họ nghĩ là không cần đến súng thần công,
nên không đưa đến. Các khẩu thần công này được kéo về và đặt ở lưng chừng đồi
Kim Sơn (Hòn Bằng) và ở đồi Bửu Châu.
Sáng ngày 10 tháng 9 năm 1885, họ bắt đầu bắn ồ ạt xuống nhà thờ, nhà xứ. Những
trận đại pháo khủng khiếp nổ vang dội cả tỉnh. Nhưng lạ thay, không một quả nào
rơi đúng mục tiêu. Đến ngày 11 tháng 9 năm 1885, quân Văn thân lại càng quyết
tâm bắn phá dữ dội hơn. Nhưng sau những trận mưa đạn pháo, nhà thờ nhà xứ vẫn
còn nguyên vẹn, chỉ có một quả rơi trúng phía cuối nhà thờ, nhưng không gây
thiệt hại gì. Mỗi ngày số đạn đại bác bắn vào nhà thờ và nhà xứ ước chừng 500 quả. Những khẩu đại bác
này được đặt ngay tại lưng chừng đồi Kim Sơn, chỉ cách nhà thờ, nhà xứ chừng 80
mét, và giao cho một vị cựu Quan thiện nghệ điều khiển.
Suốt ngày hôm đó và cả ngày hôm sau (ngày 10 và 11-9-1885) Giáo dân Trà Kiệu và
cả Cha Quản xứ (Linh mục Bruyère Nhơn) đều nghe rất rõ, quân lính Văn Thân ở
trên đồi Kim Sơn không ngớt tranh cãi với nhau : Thật lạ lùng,
có một bà mặc áo trắng trên nóc nhà thờ mà bắn không trúng. Chính viên quan xạ thủ, là một
cựu binh rất sành sử dụng súng thần công, cũng đã thú nhận : “Tôi muốn nhắm
bắn một bà đẹp trên nóc nhà thờ, nhưng đều đi quá cao, trừ một quả”
Khi nghe họ nói với nhau như vậy, Cha Quản xứ và giáo dân Trà Kiệu tin là Ðức
Mẹ đã hiện ra, các ngài cố nhìn lên nóc nhà thờ nhưng không ai được nhìn thấy
Ðức Mẹ.
Trong bài tường thuật tỉ mỉ của mình, Linh mục Geffroy đã viết như sau : "Có phải
Ðức Trinh Nữ đã hiện ra hay không ? Tôi không dám loan báo một sự việc hệ trọng
như thế. Nhưng điều chắc chắn là quân Văn Thân (những người lương) trong hai
ngày này, họ không ngừng lập đi lặp lại rằng: họ đã thấy một người đứng trên
nóc nhà thờ. Lúc thì họ kính trọng Bà và gọi là MỘT BÀ ÐẸP MẶC ÐỒ TRẮNG, lúc
thì họ nguyền rủa, tức giận vì không sao bắn trúng bà. Giáo dân khi nghe họ nói
thế cũng cố nhìn lên nóc nhà thờ, cả Cha Quản xứ nữa, nhưng không ai được nhìn
thấy "Ðức Mẹ". Còn Cha Quản xứ (Cố Nhơn) thì nói gì ?
Ngài đã xác tín là phép lạ thôi, mặc dù Ngài không được nhìn thấy Ðức Mẹ. Trong
lá thư viết cho Cha Gane ở Tòa Giám mục Quy Nhơn, Ngài đã quả quyết như sau :
"Ðối
với con, thú thật là con không được nhìn thấy phép lạ (Ðức Mẹ), nhưng buộc con
phải tin chắc rằng đó là phép lạ thôi, vì nhà xứ, nhà thờ đã thoát khỏi sự hủy
diệt của súng thần công được bắn trực xạ từ một ngọn đồi chỉ cách đó chừng vài
chục mét thôi." (Thư của Cha Bruyère gởi cho Cha Gane ở Quy
Nhơn tháng 10 năm 1885). Còn Giáo dân Trà Kiệu thì tất cả mọi người đều tin
tưởng mãnh liệt rằng : Chính Mẹ đã hiện ra và làm phép lạ tỏ tường để chở che
cho Giáo xứ Trà Kiệu. Nếu không có ơn lạ của Mẹ thì làm sao nhà thờ, nhà xứ có
thể thoát khỏi sự tàn phá của súng thần công? Ngoài ra một vài lần Giáo dân Trà Kiệu còn
nghe quân Văn thân kêu lên với nhau : có một đạo quân trẻ em, mặc áo trắng và
đỏ, từ trời cao xuống dọc theo các lũy tre và tiến lên như một đạo quân
đánh giúp cho người Công giáo. Do đó trận nào cũng chỉ sau vài phút giao tranh
là họ hoảng sợ bỏ chạy. Tất cả những việc lạ lùng này chúng ta không thể chứng
minh cụ thể được, duy chỉ có sự sống còn của Giáo xứ trước một lực lượng hùng
hậu và đông gấp bội với đầy đủ vũ khí, có súng thần công, có voi trận, và do những
viên tướng tài chỉ huy, thế mà ròng rã 21 ngày đêm bao vây và tấn công, Giáo xứ
Trà Kiệu đã tìm được sự sống trong sự chết, đã giải thoát được Giáo xứ vào ngày
21 / 9 /1885.
Ðền
Mẹ Trà Kiệu hay còn gọi là Nhà thờ Núi, được xây cất vào năm 1898 (sau biến cố
Văn Thân) để dâng kính cách riêng cho Ðức Mẹ Maria. . Ngôi nhà thờ này đã bị
sét đánh lần đầu vào khoảng năm 1915 và đến năm 1927 thì bị sét đánh một lần
nữa, hư hại nặng nề, tượng Ðức Mẹ bị bể, cho nên Cố Lân đã cho xây dựng lại một
ngôi Thánh Ðường bằng gạch, mái lợp ngói rất xinh đẹp và có một hệ thống thu
sét. Công trình xây dựng lại nhà thờ núi kéo dài trong hai năm từ năm 1927 đến
năm 1928 mới hoàn tất.
Ðến
năm 1963 , Ðức Giám mục Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi, được Tòa Thánh bổ nhiệm về
làm Giám mục tiên khởi Gp Ðà Nẵng (giáo phận mới thành lập), Ngài đã chọn Trà
Kiệu làm Trung Tâm Thánh Mẫu toàn Giáo phận Ðà Nẵng, nên đã có chương trình
chỉnh trang tu sửa và cải tạo lại toàn khu đền Mẹ. Ðể thực hiện chương trình
chỉnh trang này, Ðức Cha bổ nhiệm Linh mục Phêrô Lê Như Hảo, một Linh mục trẻ
và có năng lực kiến thiết, về làm Cha sở Trà Kiệu kiêm Trung Tâm Thánh Mẫu Trà
Kiệu.
Vì
thế khi Linh mục Hảo đến nhậm nhiệm sở Trà Kiệu (10-6-1963) việc đầu tiên là lo
xây dựng khu Trung Tâm Thánh Mẫu. Sau 3 năm chuẩn bị ngày 8-8-1966 Cha Hảo bắt
đầu khởi công xây dựng lại ngôi đền Mẹ trên đồi Bửu Châu. Ngôi nhà thờ cũ được
xây dựng vào năm 1927 dưới thời cố Lân, lại phải triệt hạ, để thay vào đó một
ngôi đền mới, kiến trúc hiện đại và do kiến trúc sư Công giáo danh tiếng Ngô
Viết Thụ thiết kế bằng bêtông cốt thép. Và nếu như không có ơn Mẹ chở che thì ngôi Ðền Mẹ chưa kịp hoàn thành
này cũng như ngọn đồi Bửu Châu đã bị quả bom 500kg của máy bay B.52 Mỹ phá hủy
cả rồi. Vào một đêm trung tuần tháng 12 năm 1966, B.52 của Mỹ thả bom ở khu vực
Hoàng Châu (bên cạnh Trà Kiệu) lại rơi xuống ngay trên ngọn đồi Bửu Châu. Ðiều
kỳ lạ nhất là quả bom đó rơi đúng phần sân phía trước, ngay trên đống cát bên
cạnh các đống gạch đá, sắt thép ngổn ngang và quả bom không nổ...
Sau 25 năm xây dựng, nền móng chung quanh Ðền Mẹ bị
mưa bão và thiên tai tàn phá làm sạt lở đất nền, nên Cha Antôn Nguyễn Trường
Thăng, quản xứ Trà Kiệu cho tu sửa chống sạt lở vào cuối năm 1987, trước khi
Cha Thăng được chuyển về Quản xứ Giáo xứ Chính Tòa Ðà Nẵng.
Mưa bão lại tiếp tục đe dọa đến phía sau và hai bên
hông của Ðền Mẹ, lượng nước mưa hằng năm càng lớn xói mòn nhiều, nhất là góc
tam giác phía sau, khiến đất lở đã kề đến chân móng, có dấu hiệu làm rạn nứt
cột móng. Tháng 8 năm 1993 Cha Phaolô Mai Văn Tôn ( kế nhiêm Cha Thăng ) trùng
tu chân đền và xây lan can bao lơn chung quanh trên đỉnh đồi Ðền Mẹ.
Mùa mưa năm 2013, mưa lũ làm nước dâng lên lưng
chừng đồi , nước chảy xiết từ trên đỉnh đồi xuống, làm sạt lở một mảng lớn phía
bên trái sân trước đền Mẹ ( phía trái khi đi từ bên dưới lên), gây nguy hiểm
đến mọi người khi đến kính viếng đền Mẹ. Nhiều khách hành hương rất xót xa khi
thấy cảnh sạt lở này trong Lần Đại Hội năm 2014. Ngay sau ngày kết thúc Đại hội
31 /5 /2014, ngày 2 / 6 / 2014 Cha Quản xứ Phao lô Đoàn Quang Dân cho xây sửa
lại, đến nay công trình đã hoàn thành để đón khách hành hương năm 2015 này. Cha
Quản xứ hiện nay Gioan Nguyễn Văn Hoàng, Ngài kiêm Giám đốc Trung Tâm Thánh Mẫu
Trà Kiệu .
Ðền Mẹ Bửu Châu là gia bảo quý báu của Giáo xứ Trà
Kiệu, là dòng sữa Thần linh nuôi sống bao đời, là dấu ấn quý yêu của tất cả mọi
người con Giáo xứ. Ðền Mẹ Bửu Châu còn là niềm an vui tự tại, là nỗi dịu vợi
tâm hồn, là ước vọng tràn đầy cho khách đến viếng thăm, cho dù khách chưa bao
giờ biết Mẹ.
Ta hãy nghe một trong muôn vàn người khách đến viếng đồi Bửu Châu đã ghi lại
nơi sổ vàng kỷ niệm :
"Trưa hôm nay con ngồi như trẻ nhỏ,
Giữa đáy trưa, trong lòng Mẹ vô cùng.
Con là sáo, Mẹ là ngàn vạn gió,
Mẹ là trời, con là hạt sương rung..."
("Việt Muôn Ðời")
Thi sĩ Xuân Diệu - 20.5.1983
1.
ÐẠI HỘI THÁNH MẪU GIÁO PHẬN QUY NHƠN TẠI
TRÀ KIỆU LẦN I (1959 ) :
Vào
năm 1958 Giáo phận Quy Nhơn đã chọn Trà Kiệu làm Trung tâm Thánh Mẫu của Giáo
phận, và cứ 3 năm sẽ tổ chức Ðại hội Thánh Mẫu Giáo phận một lần , Ðại hội lần thứ nhất được tổ chức vào năm 1959
(lúc đó Trà Kiệu còn thuộc Giáo phận Quy Nhơn, chưa lập Giáo phận Ðà Nẵng).
Ðể sốt mến bế mạc Năm Thánh Mẫu (1958) toàn Giáo phận, Giáo phận Quy Nhơn đã chính
thức tổ chức Ðại Hội Lần Thứ Nhất trong 3 ngày, từ ngày 31 tháng 1 đến ngày 2
tháng 2 năm 1959 tại Trung Tâm Thánh Mẫu Trà Kiệu. Ðây là lần đầu tiên cả Giáo
phận mới có dịp hành hương về linh địa Trà Kiệu. Ngày ấy có khoảng 10 ngàn
người từ khắp Giáo phận (Quảng Nam - Quảng Ngãi, Bình Ðịnh, Phú Yên) về Trà
Kiệu dự Ðại Hội.
Người ta còn nhớ hai câu thơ :
"Nhớ mồng 2 nhớ tháng 2
Hội Ðền Trà Kiệu ai ai cũng về".
2.
ÐẠI HỘI THÁNH MẪU GIÁO PHẬN ÐÀ NẴNG TẠI
TRÀ KIỆU LẦN II (1971) :
Ðại
hội lần thứ 2 dự trù sẽ tổ chức vào năm 1962 nhưng năm 1962 có nhiều biến cố
đặc biệt như khai mạc Công đồng Vaticanô II (10-1962) và nhất là Giáo phận Ðà
Nẵng sắp sửa thành lập, nên năm 1962 không có tổ chức Ðại hội.
Ngày
18-1-1963 Tòa Thánh đã ký sắc chỉ thành lập Giáo phận Ðà Nẵng. được tách ra
khỏi Giáo phận mẹ Quy Nhơn. Trà Kiệu lại thuộc về Giáo phận Ðà Nẵng. Giám mục
tiên khởi của Giáo phận Ðà Nẵng là Ðức Cha Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi nguyên
Giám mục Giáo phận Quy Nhơn.
Nhưng từ năm 1963 trở đi tình hình chiến cuộc ngày càng ác liệt, sự đi lại khó
khăn nguy hiểm, cho nên Giáo phận Ðà Nẵng cũng chưa thể tổ chức Ðại hội Thánh
Mẫu 3 năm một lần như dự định được.
Ðến năm 1970 việc tu sửa Trung tâm Thánh Mẫu Trà Kiệu tạm thời hoàn tất, đồng
thời cuộc chiến có phần êm dịu, nên Ðức Cha Chi muốn tổ chức Ðại hội tại Trà
Kiệu. Sau 3 cuộc họp để tham khảo ý kiến với Hội đồng Linh mục, Ðức Cha mới đi
đến quyết định tổ chức cuộc "Ðại Hội Thánh Mẫu Giáo phận" tại linh
địa Trà Kiệu trong 3 ngày, 29 đến 31
tháng 5 năm 1971.
Ðây là cuộc Ðại hội Thánh Mẫu tại Trà Kiệu lần thứ hai và được tổ chức hết sức
long trọng. Khách hành hương từ các nơi xa xôi như: Sài Gòn, Ban Mê Thuộc,
Kontum, Nha Trang, Quy Nhơn... đã lần lượt đổ về linh địa Trà Kiệu. Rồi những
ngày kế tiếp theo, đoàn người lũ lượt tăng lên, ngày càng đông, vượt ngoài dự
tính ban đầu. Ước lượng có khoảng bốn năm chục ngàn người về dự Ðại hội, ngoài
ra còn có rất đông Linh mục và nhiều Giám mục, Có cả những vị trọng vọng Đạo
Đời. Quả là cuộc Ðại hội chưa từng có.
Sáng ngày
31-5-1971, ngày bế mạc Ðại hội , có gần 50 ngàn giáo dân tham dự. Giữa lúc Ðức
Cha Philipphê Nguyễn Kim Ðiền, Giám mục Giáo phận Huế, thuyết giảng thì tiếng
súng vang rền, một cuộc đụng độ ghê gớm giữa quân đội hai miền Nam Bắc, cách xa
lễ đài không đầy một cây số. Phi cơ dội bom, đại pháo nổ liên tiếp. Tuy thế,
Thánh Lễ (bế mạc) vẫn tiếp tục. Và khi Thánh Lễ chấm dứt, nhiều loạt đạn tiểu
liên ở phía bờ tre gần đó, cách xa lễ đài vài chục thước, lạc vào đám đông. Mấy
chục ngàn giáo dân tháo chạy, thế mà không ai bị vướng đạn. Mọi người trong
Giáo phận thuở đó đều cho rằng có sự che chở đặc biệt của Ðức Mẹ" . Sau Ðại hội 1971 cuộc chiến càng ác liệt,
nên không thể tổ chức những cuộc Ðại hội tiếp theo; sau năm 1975, chính
quyền không cho phép những cuộc đại hội.
Ðến
năm 1989, do tình hình chính trị xã hội có phần đổi mới, Linh mục Quản xứ Antôn
Nguyễn Trường Thăng đã tổ chức cuộc cung nghinh Mẹ theo truyền thống vào ngày
31-5 (ngày bế mạc Tháng Hoa)( có sự đồng ý của Chính Quyền). Kể từ đó, hàng năm cứ đến ngày 31-5 (ngày
truyền thống) Giáo xứ lại tổ chức cung nghinh Mẹ từ nhà thờ chính xuống đài Mẹ
tại Trung tâm Thánh Mẫu để cử hành Thánh Lễ bế mạc Tháng Hoa Mẹ..
3. ÐẠI HỘI THÁNH MẪU GIÁO PHẬN TẠI TRÀ KIỆU
LẦN III (1995)
Do tình hình
càng ngày càng ổn định hơn, nên vào năm 1995, nhân dịp kỷ niệm 110 năm Ðức Mẹ
hiện ra tại Trà Kiệu (1885 - 1995) Giáo phận Ðà Nẵng đã tổ chức ngày Ðại hội
Thánh Mẫu Giáo phận lần thứ III
Kể từ sau 1975 , đây là lần Ðại hội đầu tiên do Giáo phận Ðà Nẵng tổ chức và cứ
theo thông lệ thì 3 năm Giáo phận tổ chức một lần, trừ những dịp đặc biệt. Còn
những năm Giáo phận không tổ chức thì Giáo xứ Trà Kiệu tổ chức.
4. ÐẠI HỘI THÁNH
MẪU GIÁO PHẬN TẠI TRÀ KIỆU LẦN IV (1997): Năm khai mạc Ðại Năm Thánh 2000, nên Giáo phận Ðà
Nẵng đã quyết định tổ chức Ðại hội Thánh Mẫu Giáo phận vào ngày 31-5-1997 để
khai mạc Tam Niên Thánh, chuẩn bị đón mừng Năm Ðại Hồng Ân (Grand Jubilé) 2000.
5. ĐẠI HỘI NĂM 2015 ; được tổ chức vào ngày 29
& 30 / 5 / 2015, kỷ niệm 130 năm Đức
Mẹ Trà Kiệu 1885-2015 ; chủ đề : Đức Maria, Ngôi Sao của công cuộc Tân Phúc Âm
hóa “ Maria vội vã lên đường” (Lc 1,39)
ĐỨC CHA PHÊ RÔ MARIA PHẠM NGỌC CHI
Tiểu
Sử Đức Cha Phêro Maria Phạm Ngọc Chi:
Sinh ngày 14/6/1909 tai Tôn Đạo, Huyện Kim Sơn, Tỉnh Ninh Bình. Năm 1927 du học Roma. Thụ phong Linh mục ngày 22/12/1933, Tiến Sĩ Triết Học, Cử nhân Thần Học, Cử Nhân Giáo Luật.1936, Giáo sư Đại Chủng Viện Phát Diêm. 1944, Phó Giám đốc Đại Chủng Viện. 1947, Giám Đốc ĐCV Phát Diệm. Đức Giáo Hoàng PiO XII tấn phong Ngài làm Giám Mục Bùi Chu ngày 3-2-1950, Lễ tấn phong ngày 4-8-1950. Hiệp định Geneve 20/7/1954 , Đức Cha vào Nam và được Tòa Thánh cử phụ trách Giáo dân Di Cư, đến 5-7-1957 làm Giám Mục Quy Nhơn và 6 năm sau Đức Cha được bổ nhiệm làm Giám Mục tiên khởi Giáo phận Đà Nẵng ngày 18/1/1963. Tất cả đường hướng Mục vụ của ngài theo tinh thần Công Đồng Vat II. Ngài đã xây dựng nhiều cơ sở mới cho Giáo Phận: Tòa Giám mục, Nhà Hưu dưỡng cho các Linh mục già yếu, Tiểu Chủng viện Thánh Gioan, bệnh viện An Bình tại An Thượng, Ðại Chủng viện Hòa Bình là Chủng Viện miền tại Hòa Khánh, Trung tâm Công Giáo Tiến Hành cạnh nhà thờ Chánh Tòa Ðà Nẵng… Ngài đã cho phép hoặc mời thêm nhiều Hội Dòng khác nhau đến hoạt động truyền giáo trong Giáo Phận như Dòng Mến Thánh Giá Huế, Dòng Kim Ðôi Huế, Tu Hội Tận Hiến Saigon, Tu Hội Nhà Chúa Saigon và Dòng Thánh Gioan Thiên Chúa Biên Hòa ra Ðà Nẵng trông coi bệnh viện An Bình. Ngài đã gởi rất nhiều Linh mục đi du học nước ngoài, học nhiều ngành chuyên biệt như Giáo luật, Luân lý, Xã hội, Thần học….
Sau 1975, mọi chương trình hoạt động của
Ngài bị ngưng do hoàn cảnh thời cuộc. Năm 1984, Chính Quyền trưng dụng Tòa Giám mục ,
Tiểu Chủng viện, khu nhà Dòng Thánh Gioan
, Bệnh viện An Bình và rất nhiều cơ sở tôn giáo tại Giáo phận Đà Nẵng. Ngài về
lưu trú tại nhà xứ Chính Tòa một thời gian ngắn, sau đó về Trà Kiệu cho đến ngày
21.1.1988 thì qua đời tại đó . Hiện nay mộ phần của Ngài trong khu vườn nghĩa
Giáo xứ TTTM Trà Kiệu, luôn luôn có người thăm viếng nguyện cầu, tri ân người
Cha khả kính và xin Thiên Chúa ban Phúc trường sinh cho Ngài, với bao nhiêu công đức
của Ngài không thể đếm xuể.
Kính thưa quý Cha và quý Vị, con
chỉ mạo muội chia sẻ đôi tâm tình, xin quí Vị nhận nơi con tâm tình tri ân ,
cảm phục sự hy sinh và việc làm cao cả
của Hội và từng Hội viên. Xin Thiên Chúa chúc lành cho mọi dự tính và việc làm
đầy thiện chí của quý Hội.
Kính
mến
Toma
Trương Văn Ân
Tài
liệu : - Trích từ trakieu.net
- Thống kê của Gp Đà Nẵng năm
2014
- Các bản thông tin của Hội BTOTT GPĐN
- Anh Phêrô Võ Anh Quy cung cấp,
và nhiều tư liệu cá nhân khác.
- Tư liệu của anh Giuse Maria
Phạm Cảnh Đáng
Nếu Quý Ông Bà Anh Chị muốn gia nhập Hội , xin
liên lạc địa chỉ :
Địa chỉ liên lạc : P.O. Box M75
Westminster , CA
92683 USA
Đêm diễn nguyện mừng 100 năm ngày sinh của Đức Cha PM Phạm Ngọc Chi 1909 - 2009
Thánh lễ Đồng tế mừng 100 năm sinh nhật Đức Cha Phê -rô Maria Phạm Ngọc Chi
Toma Trương Văn Ân , ca Trưởng , người đánh nhịp và tập hát cho ca đoàn Phạm Ngọc Chi ( ca đoàn Giáo phận)
Toma Trương Văn Ân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét